Là một nhà thơ lớn của Tây Ban Nha hiện đại, Lorca đã đem
được chất dân gian Anđaluxia cùng sức sống của xứ sở bò tót vào thơ
mình. Lại thạo dân nhạc, ông thường thích đi khắp xứ như một gã Digan
đơn độc mà hát lên những bài thơ của mình như những khúc romance,
ballad. Bởi vậy, Lorca như một nghệ sĩ kép : thi si kiêm nhạc sĩ.
Đàn ghi-ta của Lorca chính là một lối thơ mà ở đó lời thơ đã hòa vào
nét nhạc, hình tượng thơ đã cùng cấu trúc nhạc bay đôi. Thậm chí, để
tiếng nói của thơ mình thêm phong phú, Thanh Thảo còn mô phỏng những âm
thanh từa tựa các nốt đàn ghita, mô phỏng cả lối diễn tấu vẫn thường đệm
cho người hát khi diễn nữa.
Thanh Thảo đã chọn thời điểm bi phẫn nhất của cuộc đời Lorca cho cảm
hứng của thi phẩm : lúc ông bị bắn chết. Lorca luôn dự cảm và bị ám ảnh
khôn nguôi bởi cái chết. Nhưng ông cũng không thể ngờ cái chết phũ phàng
nhất đã ập xuống thân phận mình. Đối với lòng tiếc thương, mọi cái chết
đều ngang trái. Cái chết của Lorca càng ngang trái bội phần. Vì ông bị
phatxit giết hại khi mới 37 tuổi, xác ông còn bị chúng quẳng xuống một
cái giếng để phi tang. Mất mát kinh hoàng là thế, nhưng oái oăm thay,
cái chết còn là một giải thoát. Giải thoát bất đắc dĩ nhưng hoàn toàn.
Hẳn suy tư Thanh Thảo đã bị vây ám giữa những phản trái kia của cái
chết. Nhất là lúc anh đọc được cái câu như một lời nguyện cuối, một di
chúc viết sớm của Lorca : Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta.
Và thế là thi phẩm đã tự chọn cho nó một hình hài : vừa là thơ viếng vừa
như một bi ca.
Tây Ban Nha – Áo choàng đỏ gắt
Thanh Thảo chọn viết về Lorca toàn là những thi ảnh rất siêu thực trong
thế giới nghệ thuật của chính Lorca, mà sau những lãng quên chúng vẫn
không thôi đeo bám Thanh Thảo : đàn ghi-ta, bài ca mộng du, con ngựa
đen, vầng trăng đỏ, chàng kĩ sĩ đơn độc, áo choàng đấu sĩ, sắc máu đấu
trường, cô gái Di gan, lá bùa hộ mệnh, hoa tử đinh hương ( hoa lila )…
Và, tất nhiên, làm sao có thể thiếu được dòng sông cùng với cỏ mọc hoang
vốn là những hình ảnh – biểu tượng từ lâu vẫn miên man với ngòi thơ
Thanh Thảo . Nhờ đó, hình tượng Lorca và suy cảm Thanh Thảo đã nói chung
một thứ tiếng là dòng thi liệu đã trộn vào nhau đó.
Trong bài thơ, Thanh Thảo có dùng những lối kết hợp khá phổ biến ở
thơ tượng trưng. Ta gặp những Tiếng đàn bọt nước, tiếng ghi-ta nâu,
tiếng ghi-ta lá xanh, tiếng ghi-ta tròn, tiếng ghi-ta ròng ròng máu
chảy, về miền đơn độc, vầng trăng chếnh choáng, chôn cất tiếng đàn,
đường chỉ tay, dòng sông rộng… Nhiều thi ảnh được tượng trưng hoá, khiến
chúng có dạng một hình thể chứa nhiều hình ảnh. Đường chỉ tay là hiện
thân của thiên mệnh. Đường chỉ tay đã đứt tượng trưng cho cú giáng phũ
phàng trái ngang của số mệnh. Chiếc ghi-ta tượng trưng cho âm nhạc và
thơ ca. Nó là cây đàn lia của chàng nghệ sĩ tài hoa. Chiếc ghita màu bạc
là biến ảnh của chiếc ghi-ta nâu khi đã sang cõi khác. Đúng hơn, là
chiếc ghi-ta đã sang cõi siêu sinh. Thi sĩ bơi trên chiếc ghi-ta chính
là bơi trên con thuyền của thi ca đang vượt qua bến bờ sinh tử. Lá bùa
cô gái di-gan là cái đẹp huyền bí. Xoáy nước là tai hoạ định mệnh trên
dòng sông của số phận, cũng là cái dòng sông ranh giới giữa cõi sống và
cõi chết, giữa thực tại và hư vô. Hành động ném lá bùa và ném trái tim
đều giàu hàm ý tượng trưng về sự giã từ, sự giải thoát của Lorca… Lối
viết này không còn xa lạ đối với người đọc thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Chế Lan Viên hay nhóm Xuân Thu nhã tập hồi Thơ Mới. Nhưng, nó
đã được Thanh Thảo dùng nhuần nhị và hài hòa để tạo ra cho thơ mình một
cách nói hàm súc. Riêng cái câu giọt nước mắt vầng trăng trong đoạn bày
tỏ nỗi đau xót và tiếc thương trước cái chết hết sức thương tâm của
Lorca mà lời thơ kết hợp cả trượng trưng thơ Đường với tượng trưng Thơ
Mới:
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
cũng thấy được vẻ súc tích của nó. Có phải câu ấy được viết theo lối
“nghệ thuật sắp đặt” không, mà cứ đơn giản y như đặt hai hình ảnh bên
nhau : giọt nước mắt – vầng trăng thế thôi ? Giữa chúng chẳng có một
quan hệ từ nào. Thì ra, lắm khi, việc tước bỏ quan hệ từ lại là cách gia
tăng nghĩa cho hình ảnh và lời thơ. Vì giờ đây, giữa chúng lại có thể
phát sinh nhiều kiểu quan hệ, tạo ra nhiều làn nghĩa : 1) quan hệ đẳng
lập : giọt nước mắt (và) vầng trăng ; 2) quan hệ song song : giọt nước
mắt (với) vầng trăng ; 3) quan hệ so sánh : giọt nước mắt (như) vầng
trăng ; 4) quan hệ sở hữu : giọt nước mắt (của) vầng trăng ; 5) quan hệ
đồng nhất : giọt nước mắt (là) vầng trăng… Người đọc có một thoáng phân
vân : vậy ý thực của câu thơ sẽ theo nghĩa nào ? Nhưng thoáng ấy sẽ qua
nhanh bởi chỉ có câu trả lời duy nhất : nó phải là sự giao thoa và lung
linh của tất cả các làn nghĩa ấy.
Việc tái hiện sự kiện Lorca bị hành hình với những diễn biến phũ
phàng, dù chỉ là chấm phá, cũng đã ít nhiều đem lại một cái “cốt” cho
thi phẩm. Muốn kể, thì cũng kể được đôi chút. Tâm tư người đọc bị cuốn
ngay vào mạch kể qua các diễn biến ấy với những kinh hoàng, đau đớn và
tiếc thương cho một con người vô tội, một bậc tài hoa oan khuất. Nhưng,
dường như cái mạch kia còn tuân theo các bước phát triển thuộc về cấu
trúc của một ca khúc nữa. Sự kiện Lorca bị hành hình vào bài thơ này đã
dàn thành bốn phần nội dung với những khúc có dụng ý hẳn hoi về độ dài
và tiết nhịp. Đầu tiên, phần giới thiệu, là hình ảnh Lorca theo lối ấn
tượng : những tiếng đàn bọt nước / Tây – ban – nha áo choàng đỏ gắt /
li-la li-la li-la / đi lang thang về miền đơn độc / với vầng trăng chếnh
choáng / trên yên ngựa mỏi mòn. Tiếp nối, phần phát triển, Lorca bị
giết : Tây – ban – nha / hát nghêu ngao / bỗng kinh hoàng / áo choàng bê
bết đỏ / Lorca bị điệu về bãi bắn / chàng đi như người mộng du. Kế đó,
phần cao trào, là nỗi tiếc thương trước sự thực phũ phàng : tiếng ghi-ta
nâu / bầu trời cô gái ấy / tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy / tiếng ghi-ta
tròn bọt nước vỡ tan / tiếng ghi-ta ròng ròng / máu chảy // không ai
chôn cất tiếng đàn / tiếng đàn như cỏ mọc hoang / giọt nước mắt vầng
trăng / long lanh trong đáy giếng. Và cuối cùng, phần kết, với hình ảnh
Lorca lìa bỏ tất cả và giải thoát : đường chỉ tay đã đứt / dòng sông
rộng vô cùng / Lorca bơi sang ngang / trên chiếc ghi-ta màu bạc // chàng
ném lá bùa cô gái di-gan / vào xoáy nước / chàng ném trái tim mình /
vào lặng yên bất chợt / li-la li-la li-la…
Sự có mặt của hai chuỗi li-la li-la li-la ở phần đầu và phần kết là
thế. Thú thực, khi mới đọc bài thơ này trong tập Khối vuông Rubic, tôi
thấy cái chuỗi kia là một nét lạ. Nhưng đọc kĩ hơn thì thấy hình như có
một nghĩa lý nào đó hay hay, chứ không hẳn chỉ là những con âm rỗng
nghĩa. Nhưng thực hư ra sao,. Mãi sau, đọc kĩ hơn vào cấu trúc mới vỡ lẽ
: té ra đây lại là sự giao duyên kì thú của thơ và nhạc. Cụ thể là giao
thoa giữa thanh âm và thi ảnh. Mở đầu là hai câu : Những tiếng đàn bọt
nước / Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt. Thanh Thảo chọn hai hình ảnh này
khởi đầu một thi phẩm giống như kiểu tạo những âm chủ cho một nhạc phẩm.
Chúng là những tương phản kín đáo mà gay gắt : âm thanh hồn nhiên – sắc
màu chói gắt, tiếng đàn thảo dân – áo choàng đấu sĩ, vẻ khiêm nhường –
sự ngạo nghễ, niềm hân hoan – nỗi kinh hoàng, nghệ thuật – bạo lực, thân
phận bọt bèo – thực tại tàn khốc… Cặp hình ảnh cứ ngỡ tương phùng nào
ngờ lại tương tranh. Nội dung chủ đạo mà thi phẩm triển khai sẽ là phận
người trong một hiện thực đầy tranh chấp đối chọi như thế. Rồi ngay sau
hai câu mào đầu đó là chuỗi âm thanh li-la li-la li-la. Nó như một chuỗi
nốt đàn buông do người đệm đàn (ghi ta) lướt qua hàng dây để kết thúc
phần dạo, đánh dấu khoảng ngắt cho người hát chính thức bắt lời trình
diễn ca khúc. Và thi phẩm cũng kết thúc bằng sự trở lại của chuỗi âm
thanh ấy. Nó tựa những tiếng đàn đệm cuối cùng nhằm tạo những dư âm sau
khi lời hát đã ngừng. Ngẫu hứng mà đầy xao xuyến. Khi âm thanh gây niềm
xao xuyến thì tự nó cũng chất chứa thi vị!
Song, về nghĩa, lila lại chính là một loài hoa có màu tím ngát rất được
người phương Tây ưa chuộng : hoa lila – tức hoa tử đinh hương. Chuỗi âm
thanh kế tiếp gợi hình ảnh những tràng hoa chuỗi hoa bật tím liên tiếp.
Đó là những đoá hoa người đời, người thơ thầm kính viếng hương hồn Lorca
hay chính là ngàn muôn đoá hoa của sự sống đang nảy nở từ cái chết đau
thương của nhà thi sĩ, thể hiện sức sống bất diệt của những giá trị chân
chính trên cõi đời này ?
Mỗi nghệ phẩm là một sản phẩm không lặp lại. Không chỉ nội dung, mà
ngay cả hình thức. Năng lượng sáng tạo có thể tích tụ lâu dài trong cả ý
thức và tiềm thức, bằng cả vốn sống, vốn văn hoá cùng kinh nghiệm nghệ
thuật. Sáng tạo nghệ thuật là thế ; phải thế mới là nghệ thuật. Là người
ham tìm tòi cách tân, Thanh Thảo hiểu rõ điều đó. “Với những bài thơ
hay – thi sĩ sáng tạo với toàn bộ thể chất và tâm linh mình, và không
biết cái nào bắt đầu trước : thể xác hay tâm linh . Đó là cả một quá
trình nhưng sáng tạo là khoảnh khắc. Khoảnh khắc ấy xảy ra càng đột ngột
bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu”.
- Back to Home »
- Ngữ Văn 12 »
- Cảm nhận bài Đàn ghi ta của Lorca
Posted by : Funny
Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013