- Back to Home »
- Soan van lop 12 »
- Soạn bài Các vị la hán chùa Tây Phương
Tác giả
Nhà thơ Huy Cận sinh năm 1913 tại Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của “Thơ mới” với tập “Lửa
Thiêng” (1940). Sau Cách mạng tháng Tám vừa làm cán bộ lãnh đạo Văn hoá
– Văn nghệ, vừa làm thơ. Tác phẩm có: “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958),
“Đất nở hoa” (1960), “Bài thơ cuộc đời” (1963), “Những năm sáu mươi”
(1968), “Chiến trường gần đến chiến trường xa” (1973),…
Thơ Huy Cận trước Cách mạng chất chứa nỗi vạn cổ sầu, sau năm 1945 dào
dạt tình đời và niềm vui bát ngát. Thơ ông giàu nhạc điệu, hàm súc cổ
điển và có màu sắc suy tưởng, triết lý.
Xuất xứ
1. Bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” được Huy Cận viết vào năm 1960, được in trong tập “Bài thơ cuộc đời” (1963).
2. Chùa Tây Phương là một chùa cổ đẹp nổi tiếng ở huyện Thạch Thất
thuộc tỉnh Hà Tây. Có thuyết cho rằng chùa được xây dựng vào cuối thế
kỷ 18. (Sách Văn 12). Lại có thuyết khẳng định: Chùa Tây Phương được
xây dựng khá lâu đời. Năm 1554, chùa được trùng tu. Năm 1660, chúa
Trịnh Tạc đến thăm và cho sửa sang lại, chùa càng đẹp hơn, quy mô hơn.
Đến đời Tây Sơn, chùa lại được trùng tu một lần nữa và đúc chuông “Tây
Phương cổ tự” (theo Nguyễn Phi Hoành).
3. Chùa Tây Phương có rất nhiều tượng cổ. Tượng Rahula và tượng Tuyết
Sơn là 2 pho tượng to nhất và đẹp nhất ở chùa này. Ngoài ra còn có nhóm
tượng 18 vị La Hán là những vị tu hành đắc đạo, đạt đến sự yên tĩnh
vĩnh hằng – cõi Niết Bàn. Có sách Phật khác gọi là tượng Bồ Tát.
Cảm hứng chủ đạo
Ngắm nhìn các pho tượng La Hán chùa Tây Phương – công trình mĩ thuật
tuyệt diệu Huy Cận lòng vấn vương về nỗi đau đời khát vọng cứu đời của
người xưa. Trong niềm vui đổi đời, nhà thơ vô cùng cảm thông với ông
cha những thế kỷ trước, càng tin tưởng tự hào về chế độ mới sẽ mang lại
hạnh phúc cho toàn dân.
Bố cục
1. Tám khổ thơ đầu: đặc tả và cảm nhận về các pho tượng La Hán.
2. Năm khổ thơ tiếp theo: nỗi đau đời và bế tắc của người xưa. Sự cảm thông của nhà thơ.
3. Hai khổ thơ cuối: niềm tin vui và tự hào của tác giả về chế độ mới…
Những vần thơ trong trí nhớ
Cảm hứng nhân đạo bao trùm toàn bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây
Phương”. Những ý tưởng sâu sắc, những hình tượng độc đáo, ngôn ngữ thơ
đặc sắc về mặt tạo hình – làm nên giá trị nhân văn bài thơ. Tuy vậy,
người đọc vì nhiều lý do riêng, rất thích 8 khổ thơ đầu.
1. Đến thăm chùa Tây Phương, lúc trở về nhà thơ vấn vương vì sao xứ
Phật vốn từ bi “mà sao ai nấy mặt đau thương”? Huy Cận chỉ đặc tả 3 pho
tượng trong nhóm tượng La Hán để trả lời cho câu hỏi ấy.
- Pho tượng La Hán thứ nhất là hiện thân của sự tích diệt đến khô gầy.
Chân với tay chỉ còn lại “xương trần”. Tấm thân gầy như đã bị “thiêu
đốt”. Mắt sâu thành “vòm” với cái nhìn “trầm ngêm đau khổ?”. Dáng ngồi
tĩnh tọa bất động qua mấy ngàn năm:
“Đây vị xương trần chân với tay
Có chí thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay”.
Pho tượng La Hán thứ hai như chứa đựng biết bao vật vã, dằn vặt, đau
khổ. Mắt thì “giương”, mày thì “nhíu xệch”. Trán như đang “nổi sóng
biển luân hồi” vô cùng vô tận. Môi cong lên “chua chát”. Tâm hồn khô
héo. Bàn tay “gân vặn”, mạch máu thì “sôi” lên. Các chi tiết nghệ
thuật, những nét khắc, nét chạm bằng ngôn ngữ đã gợi tả vẻ dữ dội đầy
ấn tượng: về một chân tu khổ hạnh:
“Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi”
Pho tượng La Hán thứ ba rất dị hình. Ngồi trong tư thế “chân tay co xếp
lại” chẳng khác nào chiếc thai non “tròn xoe”. Đôi tai rất kì dị “rộng
dài ngang gối”. Vị tu hành này như suốt đời “nghe đủ chuyện buồn” của
chúng sinh:
“Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn”
Các khổ thơ 5, 6, 7, 8 tả khái quát nhóm tượng La Hán. Đời nhân loại
đầy “giông bão” như một vực thẳm “bóng tối đùn ra trận gió đen”. Tượng
vẫn ngồi lặng yên trong dòng chảy thời gian. Các vị tu hành xa xưa như
đang “vật vã” đi tìm phép nhiệm màu để giải thoát chúng sinh? Khổ thơ
thứ 7 nói thật sâu sự bế tắc của Phật, bởi lẽ “Đời là bể khổ” (?)
“Mặt cúi, mặt nghiêng mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau”
“Không lời đáp” bởi lẽ chúng nhân trong “đêm trường dạ” của xã hội phong kiến vẫn quằn quại đau thương cực khổ.
Tóm lại, phần đầu bài thơ rất đặc sắc. Nghệ thuật tả các pho tượng rất
biến hoá, nét vẽ, nét tạc nào cũng sống động và có hồn. Tượng La Hán là
những tĩnh vật, nhưng tượng nào cũng được tả trong những tư thế và cử
chỉ khác nhau, với một cõi tâm linh sâu thẳm. Các vị La Hán như đi tìm
phép nhiệm màu cứu nhân độ thế, đang vật vã trong bế tắc. Nhà thơ không
chỉ phản ánh một xã hội quằn quại đau khổ trong những biến động và bế
tắc không tìm được lối ra mà còn thể hiện một tinh thần nhân đạo đáng
quý, trân trọng và cảm thông với người xưa.
2. Phần thứ hai là tiếng nói cảm thông vô cũng chân thành và cảm động.
Đây là một khổ thơ hay rất đáng nhớ thể hiện cái “tâm” của Huy Cận:
“Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những bạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can, vò võ trán
Đau đời có cứu được đời đâu!”
3. Phần thứ ba, nói về sự đổi đời của nhân dân ta trong chế độ mới tươi đẹp. Hai câu cuối giàu ý vị và chất thơ:
“Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tươi vạn dặm đường xuân”
Bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” là một bài thơ độc đáo về đề
tài, đặc sắc ở ngôn ngữ miêu tả giàu hình tượng. Sự tưởng tượng kỳ diệu
và cái tâm nhân hậu của Huy Cận đã tạo nên giá trị nhân bản của bài
thơ, đem đến cho người đọc nhiều thú vị và suy tưởng về lẽ đời.