- Back to Home »
- Đề : Phân tích " Nói với con "
A.Mở bài:
“ Quê hương là gì hở mẹ?
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều”.
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã diễn tả tình yêu quê hương của mình bằng những vần thơ thật giản dị. Quả thật ai cũng có một quê hương nơi đón nhận tiếng khóc chào đời. Viết về quê hương, mỗi nhà thơ có một cách thể hiện khác nhau. Nếu như với Đỗ Trung Quân là chiếc cầu tre nhỏ, với Tế Hanh là chiếc buồm vôi, là “mùi nồng mặn quá” thì nhà thơ Y Phương lại biểu lộ tình yêu và niềm tự hào về quê hương qua lời tâm sự với con. Bài thơ “ Nói với con” được in trong “Thơ Việt Nam 1945 – 1985” là tiếng lòng của một tấm hồn chân thật, mạnh mẽ, trong sáng của người cha dành cho con. Qua đó, thể hiện tình yêu quê hương thắm thiết và diễn tả niềm tự hào về cội nguồn dân tộc.
B. Thân bài.
Những lời thơ giản dị nhưng có sức ám ảnh lạ thường trong tâm trí độc giả. Những điều người cha nói với con trong bài thơ phải chăng cũng chính là lời căn dặn yêu thương mà biết bao nhiêu người cha muốn con mình thấu hiểu ? Mỗi lần đọc bài thơ là một lần ta cúi đầu thành kính trở về với cội nguồn, với những gì thân thương nhất. Mượn lơì cha tâm tình với con,nhà thơ nhắc nhở về cội nguồn của mỗi con người, qua đó bộc lộ niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ và phẩm chất tốt đẹp của dân tộc mình, quê hương mình.
1. Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người :
Tính yêu thương của cha me, sự đùm bọc của quê hương đối với con người là vô hạn. Các con lớn lên từng ngay trong tình cảm thiêng liêng ấy. Ơ bốn câu thơ đầu, bằng những hình ảnh giản dị, Y Phương đã phản ánh sinh động không khí gia đình đầm ấm, quấn quít:
“Chân phải bước tời cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.”
Ta cứ tưởng như đang được ngắm một bức tranh của một em bé đang chập chững tập đi, bi bô nói. Điệp ngữ “ bước tới” và động từ “ chạm” được dùng rất khéo, làm nổi bật cài hồn của bức tranh. Cách thể hiện cãm nghĩ của nhà thơ thật độc đáo. Khi đứa con chập chững đi từng bước, từng tiếng nói cười của con đều được cha mẹ nâng niu, chăm chút, vui mừng đón nhận. Đó là một gia đình hạnh phút: đôi vợ chồng trẻ với đứa con thơ đầu lòng, căn nhà luôn rộn rã tiếng nói, tiếng cười.
Đứa con trường thành trong cuôc sống lao động cần củ của cha mẹ, trong khung cảnh thiên nhiện đẹp đẽ, thơ mộng của quê hương. Nhìn con lớn lên từng ngày, cha mẹ càng yêu quý thêm mãnh đất của tổ tiên, ông bà đả để lại. Câu thơ bật thốt lên từ trái tim chứa chan tình cảm sâu nặng :
Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”.
Quê hương trong thơ của Y Phương là “người đồng mình”. Đó là cách gọi độc đáo, gần gũi, thân thương về những con người sống trên cùng miền đất, quê hương. Người cha đã lý giải với con về những phẩm chất cao quí của người dân quê hương và dạy con yên lấy những gì thân thuộc nhất của người đồng mình. Đó là cốt cách tài hoa và tâm hồn trong sáng. Dưới bàn tay khéo léo của người đồng mình – những nan nứa, nan tre trở thành những nan hoa tuyệt đẹp. Các động từ “ cài, ken” được sử dụng rất uyển chuyển, khéo léo tạo cảm giác quấn quýt, thân thương. Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà còn được ken, cài bằng những câu hát trao duyên tìm bạn của những chàng trai chân chất, mộc mạc. Thì ra dưới dáng vẻ thô sơ, mộc mạc ấy là một tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời. Có thể nói Y Phương phải là một người yêu quê hương, gắn bó, tự hào về quê hương, dân tộc mình thì mới có được những cảm xúc và diễn tả hay đến vậy.
Quê hương trong lòng nhà thơ là hình ảnh những con đường nghĩa tình và cảnh thiên nhiên đẹp đẽ của quê hương: “ Rừng cho hoa - Con đường cho những tấm lòng”.Bằng cách nói nhân hoá “rừng, con đường” kết hợp với điệp từ “cho” đã làm rõ hình ảnh thiên nhiên của quê hương thật nghĩa tình. Rừng không chỉ cho con người lâm sản quí giá mà còn chở che. Con đường đâu chỉ đi ngược về xuôi, lên non xuống bể mà còn soi đường mở lối. Con đường người cha nói với con trong bài thơ có hai hình ảnh độc đáo. Trước hết là con đường đi vào bản làng, đường ra sông, ra suối đến trường. Song đằng sau hình ảnh cụ thể ấy là hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo. Đó cũng chính là con đường đi tới ước mơ, con đường đi đến mọi chân trời, con đường đi tới tương lai của con.
Qua lời thơ giản dị người cha muốn nói với con về gia đình, quê hương và khảng định đó cũng là cái nôi nuôi con khôn lớn và nhắc nhở con về ý thức cội nguồn sinh dưỡng:
“ Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.
Người cha đã nhắc đến kỷ niệm khởi đầu cho hạnh phúc để giúp con vững bước trên con đường tương lai dài rộng.
2. Lòng tự hào về vẻ đẹp của “người đồng mình” và mong ước của người cha :
Dặn dò con về quê hương ,về "đồng mình ", cha càng muốn con phải khắc cốt ghi xương nơi mình đã sống ,đã trưởng thành . Người cha đã nhấn mạnh sự gắn bó của con với những con người quê hương qua Cụm từ “Người đồng mình” được điệp đi, điệp lại:
“ Người đồng mình thương lắm con ơi”.
Cách gọi ấy gợi cảm giác thân quen gây ấn tượng sâu sắc về con người quê hương, lời gọi con cất lên thật tha thiết, chân thành “con ơi”. Người cha lần lượt ca ngợi những phẩm chất của người đồng mình với cách nói cụ thể:
“ Cao đo nỗi buồn - Xa nuôi chí lớn”.
Đó là những con người giàu ý chí, nghị lực, luôn luôn vượt lên mọi khó khăn thử thách với bao nỗi buồn, niềm vui của cuộc đời. Nhà thơ lấy sự từng trải để đo chiều cao; lấy ý chí để đánh giá sự bền vững. Hai câu thơ bốn chữ đăng đối như một câu tục ngữ đúc kết một thái độ, một phương châm ứng xử cao quý, thể hiện một bản lĩnh sống đẹp của người dân tộc Tày.
Phẩm chất cao đẹp của người đồng mình cứ lần lượt hiện dần lên qua lời tâm tình với con, nhẹ nhàng gieo vào lòng con những cảm xúc chân thành tha thiết. Đó là lối sống thuỷ chung tràn đầy niềm tin của người đồng mình:
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông, như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.
Giọng điệu tâm tình của đoạn thơ đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc trước những lời căn dặn thân thương, tha thiết. Đó cũng là ước muốn của người cha dù hoàn cảnh ntn, cuộc sống ra sao, trên đường đời dẫu chiến thắng hay thất bại thì con phải biết chấp nhận và không bao giờ gục ngã. Con hãy sống xứng đáng với người đồng mình bởi người đồng mình không bao giờ sợ gian khổ, sợ nghèo đói. Sự chấp nhận và đương đầu với gian khổ được thể hiện trong các điệp ngữ “ không chê, không lo” và cũng là lời nhắc nhở chân tình mà cha muốn truyền dạy cho con bài học đạo lý làm người: Con phải biết gắn bó với quê hương xứ sở. Ba từ “sống” được đặt ở dầu câu cùng với phép so sánh đã trở thành lời nhắc nhở con về lẽ sống ở đời. Bằng các hình ảnh ẩn dụ, so sánh, thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh” kết hợp các điệp từ “sống” vang lên, đoạn thơ đã khảng định 1 tâm thế, 1 bản lĩnh sống, 1 dáng đứng của người đồng mình và đó cũng là điều mà người cha hy vọng con hãy sống sao cho xứng đáng với quê hương.
Phẩm chất cao đẹp của người đồng mình còn được nhà thơ thể hiện bằng cách nói rất cụ thể của bà con dân tộc Tày, không hề biết nói hay, nói khéo:
“ Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”.
Đó là vẻ đẹp của tâm hồn cao thượng, của nhân cách làm người được diễn tả qua cách nói tương phản đối lập giữa hình thức và phẩm chất bên trong. Dù mộc mạc, giản dị như cây cỏ thì cũng không được sống tầm thương mà phải ngẩng cao đầu. Bộc lộ những suy nghĩ về người dân quê hương, người cha như nhắn nhủ con phải biết gắn bó, qúi trọng nơi sinh thành; trân trọng yêu mến con người quê hương. Đ có lần Y Phương tâm sự rằng câu thơ “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con” là cách nói hết sức bình thường, giản dị đó là dù cuộc sống có thế nào đi nữa thì “người đồng mình” vẫn cao thượng chứ không ích kỉ, hẹp hòi.
Chính vẻ đẹp ấy mà người đồng mình sống rất thuỷ chung, nhân hậu:
“ Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.
Người đồng mình kiên trì, bền bỉ trong công cuộc lao động để vun đắp, xây dựng xóm làng, biết dệt lên những phong tục để tôn vinh quê hương. Với cách nói cụ thể “ đục đá kê cao quê hương” - Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ thật đọc đáo để ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ như cần cù, chăm chỉ, chịu khó và ý thức tự tôn dân tộc, ý thức bảo vệ cội nguồn.
Có thể nói người cha đã nói với con tất cả những gì tốt đẹp nhất của con người quê hương – Cái nôi đã sinh ra con, nuôi con lớn khôn và trưởng thành. Một lần nữa quê hương hiện lên như nguồn tiếp sức nhưng không phải là vỗ về, âu yếm giống như thời thơ bé mà giờ đây là lời nhắc nhở con ngẩng cao đầu mà đi.
Kết thúc bài thơ là lời khuyên con của người cha thật tha thiết, chân thành với tiếng gọi âu yếm:
“ Con ơi!
Tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.
Đó cũng là lời căn dặn con không bao giờ được nhỏ bé, tầm thường mà phải biết gữi lấy cái cốt cách giản dị, mộc mạc của người đồng mình. Hai tiếng “ Nghe con” là cả tấm lòng mênh mông của người cha. Cái điều cha nhắn nhủ thật là ngắn gọn, hàm súc mà sâu sắc biết nhường nào. Ta nghe âm vang của nó như có cả mệnh lệnh của trái tim. Câu thơ ngắn lại, có câu chỉ có hai tiếng nhưng lại là sức mạnh của người cha đang tiếp cho con, nhắc nhở con phải khắc cốt ghi tâm để khi con bước trên con đường đời phải biết sống cao thượng, tự trọng, xứng đáng với những phẩm chất cao quí của người đồng mình. Câu thơ đã giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của tình phụ tử cao quý và sự xúc động trước lời căn dặn yêu thương mà người cha muốn con thấu hiểu.
Hai tiếng "nghe con" kết thúc bài thơ với tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của nhười cha đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương trìu mến quá.
C.Kết bài
Dù quê hương mỗi người chẳng giống nhau nhưng trong sâu thẳm trái tim, quê hương vẫn mãi mãi là thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý, là nơi chôn rau cắt rốn là nơi có tổ tiên, ruộng vườn của chúng ta. Thế nhưng thực tế vẫn còn đó những con người vẫn tự ruồng bỏ quê hương, là nhiều điều trái với đạo lí làm người. Trong tâm thức của họ, quê hương trở nên xa xôi, mờ nhạt. Đó cũng là điều mà Y Phương không hề mong muốn đối với mỗi chúng ta.
“Nói với con” là bài thơ đặc sắc của Y Phương với thể thơ tự do, bằng cách nói mộc mạc, giàu hình ảnh phóng khoáng vừa cụ thể vừa giàu sức khái quát, các BP điệp từ, điệp ngữ được vận dụng linh hoạt. Bài thơ là một điệp khúc về tình yêu con, tình yêu quê hương đất nước, đồng thời cũng là điệp khúc về lòng tự hào về những truyền thống cao đẹp của dân tộc. Qua bài thơ, ta hiểu thêm về vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của người dân miền núi và ta cũng như đang bắt gặp lại chính làng quê mình, tâm hồn mình. Đọc xong bài thơ, một lần nữa ta cúi đầu thành kính nhớ về cội nguồn với những gì thân thương nhất và đem đến cho chúng ta một bài học làm người : “ Không bao giờ được quên đi xứ sở, cội nguồn. Đó là sức mạnh, là niềm tự hào của lòng ta”.