- Back to Home »
- Soan van lop 12 »
- Soạn bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
ĐẤT NƯỚC
(Trích Trường ca Mặt đường khát vọng)
Nguyễn Khoa Điềm
I. Tìm hiểu chung
1.Tác giả Nguyễn Khoa Điềm
- Sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điểm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
- Quê gốc An Cựu, Thuỷ An, thành phố Huế
- Gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng. Cha ông là
Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều), nhà phê bình văn học theo quan điểm Mac xit
nổi tiếng giai đoạn 1930 – 1945. Năm 1955 ông được đưa ra Bắc học ở
trường học sinh miền Nam. Tốt nghiệp đại học Sư phạm Hà Nội 1964, Nguyễn
Khoa Điềm trở về miền Nam tham gia chiến đấu, hoạt động bí mật trong
thành phố Huế, từng bị địch bắt giam. Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968,
ông được giải thoát, tiếp tục lên hoạt động ở chiến khu Trị Thiên.
- Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu làm thơ từ thời kì này và là một trong những
nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ.
Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư người trí
thức, tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
- Sau năm 1975, tiếp tục hoạt động ở thành phố Huể, là Tổng thư kí Hội
nhà văn Việt Nam khoá V, Bộ trưởng Bộ văn hoá – thông tin, Trưởng ban
tư tưởng – Văn hoá Trung ương, Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương
Đảng.
* Tác phẩm chính: các tập thơ Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng
(Trường ca - 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007).
Ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật năm 2000.
2. Đoạn trích Đất nước
* Đoạn trích Đất nước từ trường ca Mặt đường khát vọng. Bản trường ca
nhằm thức tỉnh tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận rõ
bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, xuống đường
đấu tranh, nhập vào cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Trường ca này
hoàn thành năm 1971 và in lần đầu ở miền Bắc (1974). Đây là một trong
những tác phẩm tiêu biểu của trường ca về cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mĩ.
* Bố cục: Đoạn trích chia làm 2 phần:
- Phần 1 từ đầu đến: “làm nên Đất nước muôn đời”, ý của phần này: Đất
nước của nhân dân được cảm nhận bằng văn hoá, ca dao thần thoại và tình
yêu con người. Xen vào phần một còn thể hiện mối quan hệ biện chứng
giữa cá thể và cộng đồng, thành viên với đất nước của mình
- Phần hai còn lại: Đất Nước của Nhân dân đã qui tụ cách nhìn và sự
phát hiện về địa lí, lịch sử, văn hoá. Xen vào đó là đoạn chính luận
làm nổi bật vai trò của nhân dân quyểt định vận mệnh Tổ quốc.
* Đoạn trích thể hiện tư tưởng lớn: Đất nước này là Đất nước của Nhân
dân. Từ đó thức tỉnh tuổi trẻ miền Nam hoà hợp vào cuộc đấu tranh hướng
về nhân dân đất nước
II. Đọc hiểu văn bản
1. Đất nước của nhân dân được cảm nhận ở những góc độ. Từ đó nhà thơ thức tỉnh tuổi trẻ hướng về nhân dân đất nước.
- Tác giả nhìn nhận đất nước trên phương diện của ca dao thần thoại. Qua đoạn thơ:
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
….
Đất Nước có từ ngày đó
Đất Nước có từ rất xa. Đất Nước có từ trong những chuyện đời xưa, từ
phong tục ăn trầu đến truyền thống “biết trồng tre mà đánh giặc”. Những
hình ảnh này gợi cho ta liên tưởng tới Sự tích trầu cau, Truyện Thánh
Gióng gần gũi hơn cả là cuộc sống đời thường của mỗi con người. Thành
ngữ dân gian “gừng cay muối mặn” có từ buổi cha mẹ thương nhau, đến
chuyện đặt tên cho cái kèo, cái cột, “Hạt gạo phải một nắng hai sương”
và cuộc sống bề bộn hằng ngày… Đất Nước hiện lên thật thiêng liêng và
gần gũi, dễ cảm hoá và đi vào lòng mỗi người.
Đất Nước còn có nguồn gốc vừa thiêng liêng, vừa tôn kính:
Đất là nơi chim về
Nước là nơi Rồng về
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Ta nhận ra nguồn gốc. Ở đâu trên Đất Nước này ta phải nhớ mình đều
chung một nguồn gốc và tự hào về truyền thống con Rồng, cháu Tiên.
- Đất Nước không chỉ bắt nguồn từ đời sống lam lũ, lo toan hằng ngày mà còn bắt nguồn từ đời sống tình cảm:
“Cha mẹ thương nhau”
Và “Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Tình yêu lứa đôi cũng làm nên gương mặt tinh thần cảu Đất Nước. Hình
ảnh chiếc khăn làm ta nhớ tới câu ca dao còn đẫm nước mắt của những
người yêu nhau từ thuở xa xưa.
- Tác giả cảm nhận Đất Nước trên nhiều bình diện, phát hiện nhiều điều
mới mẻ. Đất Nước là sự thống nhất, hoà hợp của nhiều phương diện văn
hoá, phong tục, truyền thống, cả ca dao, thần thoại, có những chuyện
thuộc về đời thường hàng ngày, cũng có những cái thuộc về sự vĩnh hằng.
Trong đời sống mỗi con người có cả cộng đồng. Vì thế giọng thơ chuyển
từ trữ tình sang chính luận.
- Tìm đến ca dao, thần thoại là tìm đến đời sống giân dan từ xa xưa.
Đời sống tinh thần cảu dân tộc xưa vừa thơ mộng, vừa trữ tình. Nó mộc
mạc tự nhiên, thuần phác, dễ đi vào lòng người hôm nay để tuổi trẻ dễ
nhận ra cái hồn, cái cốt, tư tưởng Đất Nước này là đất nước của Nhân
dân.
- Giang Nam với bài Quê hương, Tố Hữu với Việt Bắc; Vũ Cao với Núi đôi;
Dương Hương Lí với Đất quê ta mênh mông, Hoàng Cầm với Bên kia sông
Đuống; Lê Anh Xuân với Dáng đứng Việt Nam…. Và rất nhiều những nhà thơ
khác đều viết về Đất Nước. Mỗi người một vẻ không ai giống ai. Giang
Nam, Vũ Cao cảm nhận về đất nước gắn liền với hi sinh, mất mát. Tố Hữu
viết về đất nước với khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến và nghĩa
tình son sắt, đạo lí cách mạng. Dương Hương Lí viết về đất nước gắn liền
với chiến công của các bà mẹ đào hầm trong tầm đại bác. Lê Anh Xuân
viết về đất nước gắn với hi sinh của chiến sĩ vô danh đã ngã xuống trên
đường băng của sân bay Tân Sơn Nhất. Hoàng Cầm xót xa trước cảnh quê
hương bị giày xéo để rồi có khát vọng vùng lên. Đất Nước của Nguyễn Đình
Thi và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm có thể đặt trong cùng bình diện.
Cả hai đều là những xúc cảm về đất nước trong tiến trình lịch sử. Đất
Nước của Nguyễn Đình Thi gắn liền với đất nước trong đau thương và quật
khởi vùng lên “Sức sống kì diệu đã biến một nước Việt Nam hiền hoà
thành một nước Việt Nam bất khuất”. Mạch cảm xúc ấy thật giá trị. Nhưng
vẫn không có gì mới mẻ. Phản ánh về đất nước, các nhà thơ đều chung
một mạch cảm xúc. Đó là xót xa, uất ức, nghẹn ngào và anh dũng đứng
lên. Đến Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự tìm được hướng khác trong cảm
nhận. Nhà thơ khai thác đề tài dân gian, địa lí và lịch sử để làm cho
mọi người thấy đấy, rõ ràng mà cũng thật bất ngờ. Cái mới, nét đặc sắc
của Nguyễn Khoa Điềm là ở chỗ đó.
- Hai dòng thơ:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Hai câu thơ làm nên chất chính luận. Nó mang tính triết lí thật sâu
sắc. Đó là mối quan hệ giữa cá thể với cộng đồng giữa mỗi người với Đất
Nước của mình. Điều ấy có nghĩa em, thế hệ trẻ không thể tách rời khỏi
Đất Nước.
Những câu thơ thực sự rung động:
Em ơi en Đất Nước là máu xương của mình
…
Làm nên Đất Nước muôn đời
Tiếng gọi thiểt tha “Em ơi em!”, kết hợp với sự khẳng định “Đất Nước là
máu xương của mình” và hàng loạt những từ phải biết, gắn bó, san sẻ,
hoá thân, làm nên… Tất cả như lời giục giã, cởi mở chân thành. Tư tưởng
Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân còn được thể hiện ở phần 2 của
bài thơ.
2. Đất Nước của Nhân dân đã qui tụ cái nhìn, đưa đến những phát hiện mới mẻ, sâu sắc về địa lí, lịch sử.
- Tư tưởng “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân” đã qui tụ mọi cách
nhìn nhận mới mẻ. Tác giả đã nhìn nhận về Đất Nước trên các bình diện về
địa lí, lịch sử, văn hoá.
- Nhìn nhận về địa lí, lịch sử văn hoá không phải là cái nhìn mang tính
đặc trưng của từng ngành khoa học này. Nói về địa lí không phải bằng
chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, cũng không bằng sự kiện lịch sử mà
bằng cách nói cảm xúc:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
…
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…
Những địa danh dòng sông (Cửu Long – chín rồng) đến tên núi “Vọng Phu”,
những tên đất gắn liền với tên người (ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm) đến gò, đầm, đồi, bãi, những danh lam thắng cảnh (Hạ Long) đã gắn
liền với dân tộc, gắn liền với cuộc sống con người. Từ đó lời thơ như
thăng hoa, đúc kết thành triểt lí sâu sắc:
Ôi! Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…
Thơ Nguyễn Khoa Điềm trữ tình mà chính luận là ở đó.
Cái bình diện địa lí, lịch sử được nhìn nhận bằng tâm hồn dạt dào cảm
xúc, góp phần làm nổi bật cảm xúc chủ đạo của bài thơ, làm nên nét
riêng độc đáo của thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về Đất Nước.
- Tác giả cất tiếng gọi:
“Em ơi em”
Sau tiếng gọi là sự giãi bày:
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
…
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Vai trò của nhân dân toả sáng trong 6 câu thơ đấy triết lí. Nhân dân ta
đã chiếm lính vũ đài lịch sử. Bất giác ta nhớ tới hình ảnh ở thời đại
ta. Đó là đội trưởng cẳm cờ trên nóc hầm Đờ Cát là một chàng trai tình
lúa Thái Bình. Những chiến sĩ ngồi trên xác pháo xe tăng cũng đều là
người nông dân mặc áo lính. Thơ là tấm lòng nhưng trước hểt thơ phải là
cuộc sống. Những người chiến sĩ ấy không thể đắn đo giữa sống và chết.
Họ thật giản dị, bình tâm. Tên tuổi họ đã làm nên Đất Nước.
- Nguyễn Khoa Điềm không dùng những từ, những luận điểm, luận cứ có
tính chính luận mà bằng ngôn ngữ của đời thường. Tác giả cũng không hô
to gọi giật của lời thơ tuyên truyền cổ động mà thơ vẫn đi vào lòng
người đọc.
- Nhà thơ nhằm mục đích thức tỉnh, lay động về nhận thức của tuổi trẻ
miền Nam, cả nước nói chung, của tuổi trẻ các thành phố, đô thị trong
vùng tạm chiếm nói riêng.
Bốn câu thơ kết đoạn:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát thi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.
Đất Nước gắn liền với dòng sông. Đất Nước gắn với những con người theo
dòng chèo đò, kéo thuyền vượt thác. Họ phải trải qua những gian nan vất
vả. Họ phải chèo, kéo và vượt qua tất cả thác ghềnh để gieo trồng và
giữ gìn sự sống. Lạ thay, họ cất lên tiểng hát. Tiếng hát để động viên
nhau. Tiếng hát thể hiện lòng yêu đời, thiết tha với đời. Tiếng hát là
tinh thần lạc quan. Người dân của Đất Nước mình đấy, dân tộc ta đấy.
Tuổi trẻ ơi! Hãy nối bước cha ông.
- Nguyễn Đình Thi dựng gương mặt đất nước theo quá trình “Từ những năm
đau thương chiến đấu” để làm nên “Nét mặt quê hương”. Nhà thơ nhấn mạnh
“Từ gốc lúa bờ tre hiền hậu/ Đã bật lên những tiếng căm hờn. Những câu
thơ tưởng như như hồn khí lực để bật lên thành sự công phá”. “Một đất
nước nung nấu đau thương, tích tụ căm hờn để cuối cùng quật khởi vùng
lên”. Nhà thơ đã phản ánh hình tượng đất nước theo một quá trình chuyển
hoá. Đất nước hiện qua mùa thu hiền hoà với hương thu gợi nhớ để rồi
sừng sững với bức chân dung dữ dội hoành tráng:
“Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà”.
Hai hình tượng để cảm xúc thơ Nguyễn Đình Thi vận động xung quanh Đất
và Trời. Hai hình tượng ấy thể hiện ở hai giai đoạn. Nó gắn vào nhau.
+ Đây là đất nước trong đau thương:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
+ Đất nước trong sự thay đổi, giành lại cuộc đời:
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
+ Đất nước trong thế vùng lên:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
- Trong khi đó Nguyễn Khoa Điềm viết về đất nước không nói về đau
thương, đổi đời, chuyển hoá vùng lên mà nhấn mạnh “Đất Nước này là Đất
Nước của Nhân dân”. Cách khai thác cũng mới mẻ. Nhà thơ tìm đến cội
nguồn Đất Nước bằng những chi tiết chân thực, giản dị ai cũng biết,
cũng nhận ra. Sự hình thành đất nước qua ca dao, tục ngữ, những huyền
thoại đẫm màu sắc dân gian. Sản phẩm tinh thần do nhân dân là người
sáng tạo. Họ làm ra Đất Nước cùng với nền văn hoà phi vật thể. Hai
tiếng dân gian nghĩa là trong dân, do dân, ở dân. Người dân đã làm ra
Đất Nước. Những bình diện về địa lí, lịch sử đưa vào thơ không phải
bằng những đặc trưng của các ngành khoa học ấy mà bằng cái nhìn dạt dào
cảm xúc, đẫm chất trữ tình. Dòng sông Đất Nước được nhìn dưới góc độ
tưởng tượng: “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Ở đâu có
trái núi mang hình một thiểu phụ bồng con, người ta gọi đó là núi vọng
phu ở Lạng Sơn, Bình Định… Tất cả được giải bày bằng cảm xúc:
“Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu”.
Hai hình tượng để cho cảm xúc thơ của Nguyễn Khoa Điềm vận động xung
quanh là Đất và Nước. Hai yếu tố tự nhiên nuôi sống con người và con
người cũng vật lộn với nó để xây lên Đất Nước.
- So sánh giữa hai bài thơ để thấy những nét riêng biệt khi viết cùng một đề tài, càng thấy sự phong phú của thơ ca hiện đại.
- Tác giả sử dụng nhiều chất liệu văn học dân gian, văn hoá dân gian
một cách nhuần nhị trong câu thơ hiện đại có tác dụng vừa tác động vào
trí tuệ, tình cảm tạo ra ý thức thẩm mĩ cho người đọc (Những câu thơ có
liên quan đến tục ngữ, ca dao, truyện cổ dân gian…)
- Tác giả kết hợp giữa cảm xúc và triểt lí, trữ tình và chính luận trong thơ để tạo ra cách cảm nhận vừa mới mẻ, vừa sâu sắc.
- Câu thơ giàu hình ảnh. Hình ảnh nào cũng gắn với cuộc sống của nhân dân, nhất là văn hoá, văn học dân gian.
Bài khác:
I . ĐẶT VẤN ĐỀ .
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn
nơi và của bao triệu trái tim con người . Đất nước đi vào đời chúng ta
qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và
những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi
nhân . Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên
ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu
dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm . Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm , ta bắt
gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một
đất nước của nhân dân . Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm
nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước . Thông qua những vần thơ kết hợp
giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức
tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế
hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước .
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như
những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở
về với cội nguồn đất nước . Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu abây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết
trồng tre mà đánh giặc .
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu
tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống
bình dị của mỗi con người . Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ
tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước
ngõ … gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và
sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân
xâm lược . Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh
thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh
chứng của một dân tộc giầu truyền thống văn hóa , giầu tình yêu thương
gắn bó với mái ấm gia đình . Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
. Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn . Tình yêu cha mẹ mãi
mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia . Hình ảnh thơ khiến ta
rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó
hôm nào : Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên
nhau .
Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa : Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay,
giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó .
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng
nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản gị biết bao . Việc tác giả sử dụng
những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với
quan niệm “Đất nước của nhân dân” .
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng
tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng
của mình : Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm .
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi
không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi
không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu
đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương . Ý nịêm về đất nước được gợi
ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên
tưởng gợi ra từ đó . Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà
vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang
những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy
thơ có thể tách ra, nhấn mạnh .
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước
gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền . Cùng với thời gian lớn lên
đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn . Không những thế, đất nước còn
người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu . Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta . Chiếc khăn - biểu tượng của nỗi nhớ thương - đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng : “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất …”, một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương . Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi
mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác
giả . Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng,
tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa . Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về . Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn .
Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian : Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ,
là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ . Nguyễn
Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ , về truyền
thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ . Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc
đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội
nguồn của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều
hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình .
Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở : Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng
, tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu
là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện : trong chiều rộng
của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian
lịch sử, trong bề dày của văn hóa - phong tục, lối sống tâm hồn và
tính cách dân tộc .
Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi , nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ .
Và cụ thể hơn nữa , gần gũi hơn nữa , Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta : Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành
máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải
là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước . Mỗi con người đều
thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước,
phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời .
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác
phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng : Đất nước của nhân dân,
chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước .
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu
về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước .
Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên … không còn
là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh
ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của
nhân dân , sự hóa thân của những con người không tên tuổi : “Những
người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ
chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái” , “Người học trò thắng cảnh” .
Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện
lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân . Chính nhân dân đã tạo
dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi
ngọn núi , dòng sông . Từ những hình ảnh, những cảnh vật , những hiện
tượng cụ thể, nhà thơ qui nạp thành một khái quát sâu sắc : Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước,
một lối sống ông cha
Ôi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu
ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta .
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi
phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất
nước . Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến những anh
hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô
danh, bình thường, bình dị . Đất nước trước hết là của nhân dân, của
những con người vô danh bình dị đó . Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ
đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn hóa, văn
minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng
nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao .
Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật
lên tư tưởn cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo : Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đát nước của
ca dao thần thoại
Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất
nước . Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện những phương
diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc : Thật đắm
say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm .
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh
sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới . Tất cả ào ạt tuôn
chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui …
III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng
thơ viết về Đất nước . Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc,
Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn
rất thiêng liêng . Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không
chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong
mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại .
Nguồn: Sưu tầm